Nguyên lý tổ hợp các công năng trong một công trình theo mặt bằng tự do được đề xuất từ đầu thế kỷ 20 bởi hai kiến trúc sư Le Corbusier và Mies van der Rohe đã là cơ sở cho sự phát triển của kiến trúc xuyên suốt thế kỷ 20 cho đến nay.
Đây là một trong những nguyên lý đã đưa hai kiến trúc sư trở thành những người sáng lập lên nền kiến trúc hiện đại. Họ là những kiến trúc sư phát minh ra những chân lý mới ư. Có thể hiểu một cách khác, họ là những con người đã biết tiếp tục phát huy tính truyền thống văn hoá để hướng tới tương lai. Bản chất của tính hiện đại vẫn là sự đổi mới không ngừng những cái đã tồn tại.

Từ rất lâu nay chúng ta đã hiểu nhầm phạm trù “hiện đại”. Nhiều người cho rằng “hiện đại” có nghĩa là du nhập từ nước ngoài, là cái gì đó phải có tính kỹ thuật phức tạp. Nhiều kiến trúc sư còn nói một cách rất ngây thơ khi cho rằng kiến trúc hiện đại là công trình phải được sử dụng nhiều vật liệu bằng kính. Chắc là họ liên tưởng tới những toà nhà bằng kính ở châu Âu hay ở Mỹ.
“Hiện đại” có thể hiểu một cách đơn thuần là sự đổi mới những cái cũ, những cái đã và đang tồn tại để thích ứng cho một cuộc sống mới, đem đến cho con người những tri thức mới. “Hiện đại” luôn mang tính liên tục và không ngừng phát triển.
Đất nước mở cửa đã mang đến cơ hội cho chúng ta phát triển ngành xây dựng. Nhưng nhìn lại phong cảnh kiến trúc của gần hai mươi năm qua thì những công trình mang tính tìm tòi sáng tạo và mới lạ có thể giới thiệu ra thế giới chỉ đếm trên đầu ngón tay. Phần lớn từ nhà ở tư nhân đến những công trình công cộng đều tìm đến những phong cách cổ điển. Từ phong trào kiến trúc Pháp cổ cho tới mấy năm gần đây việc đi tìm kiếm những ngôi nhà truyền thống cổ truyền để tái sử dụng đã trở thành mốt thời thượng. Người người săn lùng đồ cổ, nhà nhà trưng bày đồ cổ. Điều đáng nói ở đây là nhiều người chỉ chạy theo trào lưu chứ không hề hiểu biết gì về tính truyền thống cả. Đất nước chúng ta nhiều thập niên chìm trong bóng tối, tất cả các ngành sáng tạo cũng như nghệ thuật bị gián đoạn không phát triển liên tục được. Đó là lý do chính dẫn đến việc quay lại đi tìm “hình ảnh” của quá khứ. Nếu cái tinh thần hoài cổ này còn ngự trị, chúng ta sẽ trở lại với bóng tối.

Ở đầu thế kỷ 20 trong cao trào của cuộc cách mạng công nghiệp, hai vật liệu thép và bêtông được sản xuất hàng loạt đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử kiến trúc. Hai kiến trúc sư Le Corbusier (1887 – 1965) và Mies van der Rohe (1886 – 1969) đã biết nắm lấy cơ hội trong thời đại của mình sáng tạo ra những cách biểu hiện mới. Hai ông đã ứng dụng thép và bêtông là vật liệu chịu lực của công trình. Với hệ cột đỡ bản sàn, các bức tường bên trong cũng như mặt tiền của ngôi nhà không còn chịu lực nữa mà chỉ mang tính ngăn cách hay bao che. Vì vậy chúng có thể được đặt và di chuyển một cách tự do trên mặt bằng cũng như trên mặt tiền có thể trổ cửa sổ một cách tuỳ ý. Chính sự bố trí một cách dễ dàng này đã tạo ra sự linh hoạt trong việc sử dụng không gian và luôn mang lại những cảm xúc mới.
Cái tư tưởng truyền thống được hai ông bảo tồn là hình thái kiến trúc phải được định hình theo hệ kết cấu. Nếu nhìn lại kiến trúc truyền thống thì hệ cột chịu lực đã được ứng dụng từ ngàn xưa. Ở châu Âu từ kiến trúc Hy Lạp đến kiến trúc Gothic, các nhà thờ được dựng lên bởi các hệ cột bằng đá, còn ở châu Á thì hệ cột gỗ được dùng thường xuyên để chịu lực cho các đình làng hay chùa chiền. Nhưng phần tử quyết định hình thái của kiến trúc tới thời điểm đó chính là mái nhà, mái vòm khi sử dụng gạch còn mái chóp khi sử dụng hệ vì kèo gỗ. Với việc sử dụng bêtông và thép đã tạo ra mái bằng cho công trình, đó là phát minh lớn nhất cho hình thái kiến trúc ở thế kỷ 20.

Điều quan trọng ở đây là cấu trúc không gian bên trong bị ảnh hưởng trực tiếp từ hình thái bên ngoài công trình. Với sự hiện diện của mái vòm và vì kèo, tuy không có tường ngăn nhưng chúng đã tạo ta một giới hạn phân chia “ảo” trong không gian. Nhưng khi trần nhà được đổ phẳng bởi bêtông thì không gian bên trong không còn bị định hướng bởi các phần tử kết cấu nữa, từ đó sẽ tạo nên một sự tự do hoàn toàn trong bố cục mặt bằng.
Để nói tới mặt bằng tự do, ta xét đến cấu trúc không gian theo hai phần tử: “tường” và “khối”. Cả hai đều có chức năng phân chia không gian nhưng “tường” là phần tử đơn lẻ còn “khối” chứa đựng công năng. Khi hệ cột chịu lực thì các phần tử này có thể được bố trí hoàn toàn tự do trên mặt bằng. Sự giải phóng đó đã mang đến cho chúng sự tự do biểu hiện bởi các dạng hình học khác nhau cũng như sự sử dụng vật liệu một cách tuỳ ý.
Kiến trúc sư Le Corbusier tìm tới cấu trúc không gian bởi sự tổ hợp của khối. Ông coi các khối chức năng như những “bộ phận nội tạng” của ngôi nhà. Mỗi bộ phận có thể mang một hình dáng riêng biệt. Điều quan trọng là chúng phải được sắp đặt như thế nào và mối liên hệ giữa chúng ra làm sao. Ngôi biệt thự Villa Savoye được ông thực hiện năm 1929 thể hiện rõ nguyên lý này. Từ khối chính của các tầng cho tới cầu thang, tủ bếp hay tủ tường, tất cả đều đứng biệt lập tách khỏi hệ cột chịu lực và không cùng chung một hình thái.
Khác với Le Corbusier, kiến trúc sư Mies van der Rohe cấu tạo không gian khi sử dụng các phần tử “tường”. Cùng với thời đểm xây dựng ngôi biệt thự Villa Savoye, ông cũng trở nên nổi tiếng khi thực hiện công trình Barcelona Pavilion. Đây là công trình đại diện cho nước Đức tại cuộc triển lãm kiến trúc quốc tế tại thành phố Barcelona năm 1928 – 1929. Từ mặt bằng tự do, ông đã đưa ra khái niệm “không gian mở” là một tư tưởng hoàn toàn mới trong cấu trúc không gian. Các bức tường ở đây cũng đứng tách ra khỏi hệ cột chịu lực một cách tự do. Chúng tổ hợp với nhau nhưng không hề chạm nhau, không tạo ra một góc khép kín. Chúng phân chia không gian bên trong nhưng đồng thời vươn ra cả phía ngoài nối liền trong và ngoài. Chúng trở thành “khớp nối” của các không gian tạo ra tính liên tục và xuyên suốt.

Hai công trình của Le Corbusier và Mies van der Rohe đã trở thành tiền đề chỉ ra một hướng đi rất rộng cho sự phát triển của kiến trúc sau này. Vượt trên phạm trù về thẩm mỹ, một công trình kiến trúc có chiều sâu phải tạo ra một cánh cửa mở rộng hướng về tương lai, một tương lai có giá trị mang đúng ý nghĩa hiện đại.
Để tiếp nối tính truyền thống hiện đại đó, hai kiến trúc sư giới thiệu sau đây tiếp tục đi tìm những khả năng mới của mặt bằng tự do. Những ý tưởng của họ luôn muốn tiến tới tính “cực điểm” của nguyên lý này. Ta cũng sẽ thấy ở đây sự tìm tòi liên tục của một tư tưởng mà từ công trình nọ đến công trình kia luôn hiển hiện một cách rõ rệt, khẳng định mong muốn không ngừng phát triển tư duy người thiết kế.
Qua đây bài viết cũng muốn nói tới mặt bằng tự do trong nhà ống. Khi đã nói tới tự do thì tức là sẽ không loại trừ một cấu hình nào cả. Hơn nữa, khác với những ngôi nhà ống giới thiệu ở những số tháng trước, hai ngôi nhà ống lần này không nằm trong những khu phố ở đô thị. Điều đó chỉ muốn chứng tỏ rằng mô hình nhà ống có thể phù hợp tại bất kỳ diện mạo nào của khu đất.

0 nhận xét:
Đăng nhận xét